Không chỉ đất hiếm, Việt Nam có kho báu khác cả thế giới thèm khát, một tỉnh miền Trung nắm 80% trữ lượng - Ảnh 1.

Ảnh minh họa

Theo báo cáo mới nhất của Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm khoảng 3,5 triệu tấn. Đất hiếm là tài nguyên quý tạo nên nhiều nguyên liệu quan trọng sản xuất các sản phẩm công nghệ cao như: đồ điện tử, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang, chất xúc tác, quang điện, thiết bị y tế… Đặc biệt, đất hiếm là nhân tố quan trọng để xây nên những cấu kiện quan trọng nhất của một chiếc xe như pin, động cơ điện.

Bên cạnh đất hiếm, kho báu Niken cũng được sử dụng nhiều trong ngành công nghệ như sản xuất pin xe điện. Niken là một kim loại màu trắng bạc, bề mặt bóng láng, là một trong nhiều tài nguyên đang được săn đón trên thế giới.

Theo Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, trên toàn cầu, tài nguyên niken ước tính hơn 350 triệu tấn niken. Trong đó, Indonesia nắm trữ lượng lớn nhất với khoảng 55 triệu tấn, sau đó là Úc với 24 triệu tấn.

Tại Việt Nam, theo Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim (Bộ Công Thương), tổng trữ lượng và tài nguyên niken ở Việt Nam ước tính khoảng 3,6 triệu tấn niken kim loại. Trong đó, tỉnh nắm giữ lớn nhất là Thanh Hóa với hơn 3 triệu tấn niken. Cùng với đó, Sơn La có 420.523 tấn, và Cao Bằng có 133.677 tấn niken.

Trong đó phần lớn tài nguyên niken tồn tại ở dạng khoáng vật đi kèm trong quặng crôm như vùng mỏ crômit Cổ Định (Thanh Hóa), hiện chưa có giải pháp thu hồi hiệu quả. Quặng niken ở khu vực Sơn La và Cao Bằng chủ yếu là loại hình quặng niken - đồng xâm tán.

Năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng vàng, đồng, niken, molipden đến năm 2025, có xét đến năm 2035, trong đó đã nêu rõ "hướng đi" đối với khoáng sản niken.

Theo đó, phấn đấu sản lượng khai tuyển đạt 118.000 tấn tinh quặng niken vào năm 2025. Giai đoạn đến năm 2025, đầu tư và đưa vào hoạt động 2 nhà máy sản xuất sản phẩm niken với tổng sản lượng khoảng 8.000-11.000 tấn/năm.

Theo quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, đối với các loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chiến lược, quan trọng như niken, bô-xít, titan, đất hiếm, crômit, đồng, vàng, các doanh nghiệp được cấp phép khai thác mỏ phải có đủ năng lực và phải đầu tư các dự án chế biến phù hợp sử dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, bảo vệ môi trường bền vững.

Đồng thời, hạn chế và tiến tới chấm dứt khai thác các mỏ trữ lượng thấp, phân tán, nhỏ lẻ, tập trung tài nguyên khoáng sản từ các mỏ/điểm mỏ quy mô nhỏ thành các cụm mỏ quy mô đủ lớn để đầu tư đồng bộ từ thăm dò, khai thác, chế biến áp dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại.

Theo Cục Thông tin, Thống kê (Bộ Khoa học và Công nghệ), với sự phát triển của khoa học công nghệ và nhu cầu quặng tinh niken ngày càng tăng, việc đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu chế biến sâu trên thị trường thế giới là vô cùng cấp thiết. Tuy nhiên, đến năm 2021, Việt Nam vẫn chưa có tiêu chuẩn quốc gia cụ thể cho quặng tinh niken nói chung và quặng tinh niken sunfua nói riêng.

Trong khi đó, các doanh nghiệp khai thác và chế biến niken như Công ty TNHH Mỏ Niken Bản Phúc (Sơn La) đã hoạt động từ năm 2013 và Công ty Cổ phần Khoáng sản Tấn Phát (Cao Bằng) đang trong giai đoạn xây dựng nhà máy. Đây là hai mỏ niken sunfua có trữ lượng lớn nhất cả nước.

Do đó, việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng quặng tinh niken là cực kỳ cần thiết, không chỉ để quản lý hoạt động chế biến khoáng sản mà còn để thiết lập các quy định về đặc tính kỹ thuật, giúp phân loại và đánh giá sản phẩm.

Điều này sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả sản phẩm quặng tinh niken sunfua, đồng thời tạo cơ sở cho các doanh nghiệp định hướng sản xuất, lựa chọn công nghệ, đổi mới trang thiết bị, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên khoáng sản niken và các khoáng sản đi kèm.